Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 9, Quốc hội Khóa XV, ngày 19/5, Bộ trưởng Bộ Xây dựng Trần Hồng Minh, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình Tờ trình về điều chỉnh chủ trương đầu tư Dự án đường bộ cao tốc Biên Hòa– Vũng Tàu (giai đoạn 1).
Trước đó, ngày 16/6/2022, Quốc hội đã quyết định chủ trương đầu tư Dự án tại Nghị quyết số 59/2022/QH15, trong đó đầu tư khoảng 53,7 km đường cao tốc, tốc độ thiết kế 100 km/h; quy mô 4-6 làn xe; sơ bộ tổng mức đầu tư khoảng 17.837 tỷ đồng; chia thành 3 dự án thành phần.
Nguồn vốn đầu tư dự án gồm: ngân sách nhà nước giai đoạn 2021- 2025 là 14.270 tỷ đồng, trong đó: ngân sách trung ương là 11.000 tỷ đồng; ngân sách địa phương là 3.270 tỷ đồng (tỉnh Đồng Nai là 2.600 tỷ đồng và tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu là 670 tỷ đồng); ngân sách trung ương giai đoạn 2026- 2030 là 3.567 tỷ đồng.
Tiến độ thực hiện, dự án cơ bản hoàn thành năm 2025 và hoàn thành đưa vào khai thác đồng bộ toàn dự án năm 2026.
CÁC YẾU TỐ LÀM TĂNG TỔNG MỨC ĐẦU TƯ
Bộ Xây dựng cho biết qua quá trình triển khai thực hiện Dự án, đã phát sinh một số yếu tố làm tăng tổng mức đầu tư của các Dự án thành phần được Bộ Xây dựng và UBND các tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa- Vũng Tàu phê duyệt, dẫn đến tăng sơ bộ tổng mức đầu tư Dự án đã được Quốc hội thông qua tại Nghị quyết số 59/2022/QH15 ngày 16/6/2022.
Cụ thể, về chi phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư: theo kết quả rà soát, tổng hợp phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư các Dự án thành phần đã được các chủ đầu tư các Tiểu dự án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư phê duyệt, triển khai thực hiện và kết quả rà soát chi phí dự kiến còn lại. Dự kiến tổng chi phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của Dự án là 9.856 tỷ đồng, tăng 3.227 tỷ đồng.
Kinh phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư có biến động lớn dẫn đến vượt sơ bộ tổng mức đầu tư của Dự án có nguyên nhân chủ yếu là do: trong bước thực hiện công tác giải phóng mặt bằng đã thực hiện đo đạc, kiểm đếm và chuẩn xác lại khối lượng, cơ cấu diện tích các loại đất bị ảnh hưởng; chuẩn xác lại khối lượng và chi phí di dời hạ tầng kỹ thuật;
Ngoài ra, biến động về đơn giá bồi thường trên địa phận tỉnh Đồng Nai và tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu tại thời điểm thu hồi đất so với dự kiến; bổ sung nút giao khác mức liên thông với đường Mỹ Xuân- Ngãi Giao (ĐT.991).
Về chi phí đầu tư xây dựng: trên cơ sở kết quả triển khai thực hiện các dự án thành phần, tổng chi phí đầu tư xây dựng của Dự án dự kiến là 11.695 tỷ đồng, tăng 487 tỷ đồng.
Theo Bộ Xây dựng, chi phí đầu tư xây dựng tăng thêm do quá trình triển khai, chủ đầu tư các Dự án thành phần đã tổ chức thực hiện khảo sát chi tiết địa hình, địa chất, thủy văn và thỏa thuận với các cơ quan quản lý công trình hạ tầng có liên quan theo quy định. Trên cơ sở đó rà soát, cập nhật, tối ưu hóa các giải pháp thiết kế (giải pháp xử lý đất yếu, thiết kế công trình cầu,...) nhằm đảm bảo phù hợp với điều kiện thực tế, ổn định và an toàn trong khai thác.
Bên cạnh đó do biến động đơn giá vật liệu, nhân công, máy thi công tại thời điểm lập, phê duyệt hồ sơ thiết kế kỹ thuật và dự toán xây dựng công trình vào năm 2023 so với thời điểm lập chủ trương đầu tư. Việc tăng vốn còn do việc đầu tư bổ sung hạng mục trạm kiểm tra tải trọng xe theo Quy chuẩn QCVN 66:2024/BGTVT; bổ sung nút giao khác mức liên thông với đường Mỹ Xuân- Ngãi Giao (ĐT.991).
Theo quy định tại khoản 2 Điều 37 và khoản 4 Điều 103 Luật Đầu tư công số 58/2024/QH15, do Dự án tăng tổng mức đầu tư so với chủ trương đầu tư được duyệt nên phải thực hiện thủ tục trình Quốc hội phê duyệt điều chỉnh chủ trương đầu tư, làm cơ sở điều chỉnh dự án đầu tư các Dự án thành phần.
Ủy ban Kinh tế và Tài chính cho rằng sơ bộ tổng mức đầu tư dự án tăng 3.714 tỷ đồng tương đương khoảng 20,8% sơ bộ tổn mức đầu tư dự án đã được Quốc hội quyết định là khá lớn.
Với những lý do trên, tờ trình Chính phủ kiến nghị điều chỉnh sơ bộ tổng mức đầu tư toàn bộ Dự án tăng từ 17.837 tỷ đồng lên 21.551 tỷ đồng (tăng 3.714 tỷ đồng).
Trong đó: dự án thành phần 1 là 6.693 tỷ đồng (chi phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư là 3.481 tỷ đồng); Dự án thành phần 2 là 7.642 tỷ đồng (chi phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư là 2.354 tỷ đồng); Dự án thành phần 3 là 7.216 tỷ đồng (chi phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư là 4.021 tỷ đồng).
Đồng thời điều chỉnh nguồn vốn: Ngân sách nhà nước giai đoạn 2021- 2025 là 17.124 tỷ đồng (tăng 2.854 tỷ đồng), trong đó ngân sách trung ương là 12.144 tỷ đồng, ngân sách địa phương là là 4.980 tỷ đồng (tỉnh Đồng Nai là 2.969 tỷ đồng và tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu là 2.011 tỷ đồng); Ngân sách trung ương giai đoạn 2026- 2030 là 4.427 tỷ đồng (tăng 860 tỷ đồng).
Đối với vốn ngân sách trung ương giai đoạn 2021-2025: cần bổ sung 1.144 tỷ đồng, trong đó dự kiến phân bổ 323 tỷ đồng cho Dự án thành phần 1 và 821 tỷ đồng cho Dự án thành phần 2. Bộ Xây dựng đã rà soát kế hoạch đầu tư trung hạn 2021-2025 của Bộ Xây dựng và đủ khả năng cân đối bố trí đủ 1.144 tỷ đồng cho 2 Dự án thành phần.
Đối với vốn ngân sách địa phương giai đoạn 2021-2025: cần bổ sung 1.710 tỷ đồng, trong đó tỉnh Đồng Nai cần bổ sung 369 tỷ đồng và tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu cần bổ sung 1.341 tỷ đồng. Hội đồng nhân dân và UBND các tỉnh Đồng Nai , Bà Rịa- Vũng Tàu đã cam kết bố trí đủ phần vốn ngân sách địa phương.
Đối với vốn ngân sách trung ương giai đoạn 2026-2030: cần bổ sung 860 tỷ đồng sẽ được Chính phủ cân đối bố trí trong Kế hoạch đầu tư công giai đoạn 2026- 2030.
ĐỀ NGHỊ LÀM RÕ HƠN NGUYÊN NHÂN VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC CƠ QUAN, TỔ CHỨC, CÁ NHÂN
Thẩm tra nội dung này, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội Phan Văn Mãi cho biết Ủy ban cơ bản nhất trí với sự cần thiết điều chỉnh chủ trương đầu tư Dự án với những lý do đã được nêu tại Tờ trình.
Tuy nhiên, cơ quan thẩm tra đề nghị làm rõ hơn nguyên nhân khách quan, chủ quan và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc chuẩn bị đầu tư Dự án chưa kỹ lưỡng dẫn đến tăng chi phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và chi phí đầu tư xây dựng so với sơ bộ tổn mức đầu tư đã được Quốc hội quyết nghị cho Dự án.
Ủy ban Kinh tế và Tài chính cho rằng sơ bộ tổng mức đầu tư dự án tăng 3.714 tỷ đồng tương đương khoảng 20,8% sơ bộ tổn mức đầu tư dự án đã được Quốc hội quyết định là khá lớn. Do đó đề nghị tiếp tục rà soát các chi phí tăng, giảm của dự án và phân tích, bổ sung để làm rõ hơn việc tăng, giảm các chi phí này nhằm bảo đảm tính chính đáng, hợp lý trong việc đề xuất điều chỉnh chủ trương đầu tư dự án.
Về nguồn vốn và khả năng cân đối vốn, theo Tờ trình số 422/TTr-CP, tổng mức đầu tư dự án tăng thêm là 3.714 tỷ đồng, dự kiến bố trí vốn trong giai đoạn 2021- 2025 là 2.854 tỷ đồng và giai đoạn 2026- 2030 là 860 tỷ đồng.
Đối với nguồn vốn ngân sách nhà nước giai đoạn 2021- 2025, theo cơ quan thẩm tra, để có nguồn vốn bố trí kịp thời, bảo đảm dự án không bị kéo dài, sớm đưa vào khai thác sử dụng, đề nghị Chính phủ chỉ đạo các cơ quan chức năng làm rõ hơn nguồn vốn và khả năng cân đối vốn cho Dự án.
Một số ý kiến cho rằng thực hiện chủ trương sắp xếp, sáp nhập đơn vị hành chính cấp tỉnh, 2 địa phương này sẽ được sáp nhập vào các đơn vị hành chính mới nên có thể ảnh hưởng đến khả năng bố trí và điều phối nguồn vốn địa phương theo kế hoạch. Do đó đề nghị Thủ tướng Chính phủ và UBND các địa phương làm cơ quan chủ quản chịu trách nhiệm bảo đảm bố trí đủ vốn cho Dự án.
Đối với nguồn vốn ngân sách trung ương giai đoạn 2026- 2030, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 70/2025/UBTVQH15 ngày 07/02/2025 quy định về nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn đầu tư công nguồn ngân sách nhà nước giai đoạn 2026- 2030. Do dó đề nghị Chính phủ tổng hợp nhu cầu vốn của Dự án trình cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.
Ngoài ra, có ý kiến đề nghị làm rõ hơn tính khả thi, khả năng bố trí vốn cho việc điều chỉnh chủ trương đầu tư Dự án trong điều kiện ngân sách nhà nước phải thực hiện rất nhiều dự án quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Đồng thời, Chính phủ chịu trách nhiệm về tính chính xác của số liệu và cam kết bảo đảm tiến độ, chất lượng của Dự án và xác định thời gian hoàn thành đưa vào sử dụng, không để tiếp tục xảy ra tình trạng tăng vốn.